MƯỜI VỊ TƯỚNG
GIỎI NHẤT MỌI THỜI ĐẠI
1 .Alexandros Đại Đế
Alexandros Đại Đế ( Megas Alexandros;
tháng 7 năm 356 TCN – 11 tháng 6 năm 323 TCN), cũng được biết đến như là
Alexandros III, là vua của xứ Macedon (336–323 TCN) và được xem là một trong
những nhà chỉ huy quân sự thành công nhất trong lịch sử, người đã chinh phục
gần như toàn bộ thế giới mà ông biết trước khi chết; ông thường được đứng trong
cùng một danh sách với Napoléon Bonaparte, Julius Caesar và Thành Cát Tư Hãn
như là một trong những nhà chiến lược quân sự vĩ đại nhất trong lịch sử. Tiếp
sau sự thống nhất các thành bang Hy Lạp cổ đại dưới sự cai trị của cha ông,
Philip II xứ Macedon, (một việc Alexandros phải lặp lại hai lần vì các miền
phía nam Hy Lạp nổi loạn sau khi Philip chết), Alexandros chinh phục Đế chế Ba
Tư, bao gồm cả Anatolia, Syria, Phoenicia, Gaza, Ai Cập, Bactria và Lưỡng Hà và
mở rộng biên cương đế chế của ông đến xa tận Punjab. Alexandros thực hiện một
chính sách hòa hợp: ông đưa cả những người ngoại quốc (không phải người Hy Lạp
hay người Macedon) vào chính quyền và quân đội của mình, ông khuyến khích hôn
nhân giữa quân của mình với người nước ngoài và chính ông cũng lấy vợ ngoại
quốc.
Sau mười hai năm liên tục tổ chức các
chiến dịch quân sự, Alexandros chết, có lẽ là do sốt rét, thương hàn, hay viêm
não do virút. Những cuộc chinh phạt của ông mở đầu cho nhiều thế kỉ định cư và
thống trị của người Hy Lạp trên nhiều vùng đất xa xôi, một giai đoạn được gọi
là thời kỳ Hy Lạp hóa. Bản thân Alexander sống trong lịch sử và trong các truyền
thuyết của các nền văn hóa Hy Lạp và không Hy Lạp. Ngay khi ông còn sống, và
đặc biệt sau khi ông chết, những cuộc chinh phạt của ông đã là nguồn cảm hứng
của một truyền thống văn học mà trong đó ông xuất hiện như là một anh hùng
huyền thoại theo truyền thống của Achilles.
2 . Julius Ceasar
Sự nghiệp quân sự rất thành công của
Caesar khiến ông đuợc xếp vào ngang hàng với Alexander Đại đế, Hannibal , Thành Cát Tư Hãn
và Napoléon Bonaparte. Mặc dù ông cũng đã từng thất bại lớn trong nhiều trận
đánh, như trận Gergovia (trong cuộc chinh phạt xứ Gaul), Trận Dyrrhachium
(trong cuộc Nội chiến), thế nhưng khả năng, mưu lược tài tình của ông vẫn ngời
sáng qua sự xây đắp thành lũy ở Alesia trong cuộc chiến xứ Gaul, chiến thắng
đội quân đông đảo hơn rất nhiều của Pompey ở Pharsalus, và sự tận diệt đội quân
của vua Pharnaces ở Trận Zela.
Caesar chiến thắng dưới bất kỳ địa hình,
thời tiết nào có thể phần lớn là nhờ vào tính kỷ luật cao của binh lính ông,
khả năng điều khiển tuyệt vời, và sự trung thành của binh lính dành cho ông. Kỵ
binh và bộ binh của ông là tốt nhất (của La Mã thời đó), và ông sử dụng rất
nhiều các thiết bị chiến tranh của La Mã như máy bắn đá, máy bắn tên và nhiều
mặt khác nữa, điều mà khiến cho lực lượng của ông trở nên cực kỳ thiện chiến,
kỷ luật và di chuyển rất nhanh (một vài tài liệu chép rằng lực lượng của Caesar
có thể di chuyển tới hơn 40 dặm trong vòng một ngày). Lực lượng của ông ước có
khoảng hơn 40.000 bộ binh và rất nhiều kỵ binh, cùng với một số đơn vị chuyên
dụng khác như là các máy móc chiến tranh, phu phục vụ. Caesar kể trong bản hối
ký của ông rằng một số làng của người Gaul được xây dựng trên dốc thẳng đứng và
rất vững chắc, sẽ thiệt hại rất lớn nếu muốn tấn công những khu làng kiểu này,
nhưng các máy móc và kỹ sư của ông có thể đào qua các lớp đá cứng và tìm ra
nguồn cung cấp nước cho các làng đó, và ông ngắt nó đi. Ngôi làng thiếu nước
cung cấp, đầu hàng hầu như ngay lập tức.
3. Hannibal
Người La Mã hiểu rằng họ không thể đánh
bại Hannibal .
Tuyệt vọng, La Mã trao quyền cho nhà độc tài Quintus Fabius Maximuss. Fabius ra
lệnh tránh chiến tranh trực diện bằng mọi giá, chỉ đánh du kích cho tới khi
quân Carthage
suy yếu đủ để tấn công trực diện. Nhưng khi Hannibal hành quân tới Cannae (trận
Can) năm 216 trước cn, Fabius đưa 1 đội quân 80000 người ra chống lại. Đội quân
này ngay lập tức bị Hannibal tiêu diệt hoàn
toàn, đây là thất bại lớn nhất Rome
từng trải qua. Các đồng minh phía Nam Italy của La Mã chạy sang phía Hannibal , toàn bộ Sicily
trở thành đồng minh của Carthage .
Thêm vào đó, vua Philip V xứ Macedon, người kiểm soát hầu hết lãnh địa Hy Lạp
cũng ngả theo Hannibal
và bắt đầu cuộc chiến tranh chống lại La Mã năm 215 trước cn. Tình hình gần như
tuyệt vọng đối với La Mã. Fabius không còn dũng khí đối đầu với Hannibal . Hannibal đưa quân đội vòng quanh Italy mà không còn bất cứ sự chống
cự nào. Tuy nhiên, Hannibal không có đủ lực
lượng và trang bị để bao vây hay tấn công ồ ạt các thành phố như Rome . Tất cả những gì ông
có thể làm là đi khắp các miền nông thôn Italy và tàn phá nó.
La Mã quyết định tấn công hậu phương của Hannibal . Biết rằng
Hannibal phụ thuộc vào nguồn cung cấp nhân lực và vật lực từ TBN, La Mã trao
cho Publius Cornelius Scipio (237-183 trước cn), 1 thiên tài về chiến lược chức
Thống đốc Tây Ban Nha, 1 hành động không hợp hiến vì vị tướng trẻ này chưa bao
giờ là quan chấp chính. Scipio, sau này được gọi bằng cái tên Scipio Africanus
vì chiến thắng của ông trước người Carthage
trên đất Châu Phi, đã nhanh chóng chinh phục toàn bộ TBN. Đến lúc này, Hannibal bị mắc cạn trên đất Italy . Sau đó, Scipio đưa quân vào
Châu Phi và buộc người Carthage phải đề nghị Rome 1 hiệp ước hòa bình.
Một phần của hiệp ước này là Hannibal phải rời
khỏi bán đảo Italy .
Hannibal là 1
trong những danh tướng vĩ đại nhất trong lịch sử thế giới. Trong suốt cuộc
chiến tranh với La Mã, ông không hề thua 1 trận nào. Dù vậy ông vẫn buộc phải
rút lui. Và dù thắng trong tất cả các trận đánh, Hannibal đã thua trong cuộc chiến tranh này.
Khi Hannibal quay trở lại, người Carthage lấy lại tinh thần
và thêm 1 lần nữa nổi dậy chống lại La Mã. Năm 202 trước cn, Hannibal
và Scipio giao chiến ở At Zama phía bắc Châu Phi và tại đây Hannibal nếm chiến bại đầu tiên. Carthage bị đưa xuống
thành 1 bang độc lập. La Mã lúc này kiểm soát toàn bộ miền tây Địa Trung Hải
bao gồm cả khu vực Bắc Phi.
Cuộc chiến này mang đến cho La Mã những
kinh nghiệm lịch sử. Họ đã phải đối mặt với những thất bại hiển nhiên trước một
địch thủ hùng mạnh và cuối cùng đã chiến thắng những kẻ thù vượt trội này. Tính
cách La Mã được nhìn nhận từ cuộc chiến tuyệt vọng này đã xuyên suốt phần còn
lại của lịch sử đế chế. Chiến tranh Punic lần 2 đưa La Mã từ 1 quyền lực có
tính khu vực trở thành 1 đế chế trên toàn thế giới. Với việc Philip V của
Macedon bắt tay với Hannibal tiến hành chiến tranh chống lại Rome, La Mã chuyển
hướng chiến tranh về phía đông trước tiên xâm chiếm Macedon và sau đó là các
vương quốc Hi Lạp khác. Kết quả cuối cùng của chiến tranh Punic lần 2 là sự
thống trị thế giới của La Mã.
4 . Thành Cát Tư Hãn
Ðoàn quân Mông Cổ
Thời Trung cổ, nước Mông Cổ, xét về dân
số, chỉ là một nước nhỏ, nhưng họ đã làm rung chuyển thế giớithời đó vì họ có
những thủ lãnh xuất chúng với một đạo kị binh thiện chiến giỏi cỡi ngựa, giỏi
cung tên và vô cùng tàn ác, " nơi nào ngựa Mông Cổ đi qua, cây cỏ cũng hết
sống ".
Thành Cát Tư hãn
Bão táp bắt đầu nổi lên cùng với sự xuất
hiện của Thiết Mộc Chân (Temujin 1162-1227), sau này lấy danh hiệu là Thành Cát
Tư Hãn, tức Genghis Khan. Vừa nắm được quyền hành, Thành Cát Tư Hãn đã khởi sự
chiến tranh, theo đuổi mộng bá chủ:
- 1205-1209: chinh phục nước Tây Hạ
(Hsi-Hsia), tức vùng đất Tây Thục sau nàỵ
- 1211-1215: chinh phục nước Kim (Chin),
vượt Vạn Lý Trường Thành, chiếm thủ đô Bắc Kinh của người Kim. Sau này, nước
Kim sát nhập vào nước Tầụ
- 1218-1219: chinh phục đế quốc Ba Tư
(thời đó là Khwarezmian empire của Mohammed Shah), gồm đất Ba Tư,Khorassan,
Transoxonia, Samarkand và Afghanistan .
- 1222: Tuân lệnh của Thành Cát Tư Hãn
quân Mông tiến sang Âu châu, chiếm toàn vùng Caucasus, vượt sông Don, tràn vào
Crimea rồi Ukraine , hạ trại
bên bờ sông Dnieper . Ông hoàng thành Kiev đưa 80 ngàn quân đánh
quân Mông, nhưng đã bị Subotai và danh tướng Chepe nghiền nát. Năm 1224 danh
tướng Chepe bị bệnh chết, Subotai triệt thoái trên con đường dài 4000 dặm để
bắt tay với đoàn quân trung ương.
- 1226: Thành Cát Tư Hãn chọn con trai là
Ogedei làm người nối nghiệp, rồi chuẩn bị đưa 180 ngàn quân đi trừng phạt quân
Hạ và Kim là hai nước đã bị quân Mông Cổ đánh bại, nay liên kết với nhau chống
lại quân Mông Cổ.
- 1227: Thành Cát Tư Hãn chết. Ogedei đại
hãn và Kuyuk đại hãn Ogedei và con là Kuyuk tiếp tục mộng bá chủ của cha.
- 1231: Xâm lăng Cao Ly (Korea ).
- 1235-1239: Con Ogedei Khan là Godan
đánh chiếm Tây Tạng.
- 1237-1238: Subotai xua 150 ngàn quân
trở lại Âu châu, gieo tàn phá, chết chóc khắp vùng phía Bắc nước Nga .
- 1240: Chiếm Kiev, rồi Lithuania và Ba lan.
- Tháng 4, 1240: Subotai hạ thành Pest , tiêu diệt đạo quân của vua Bela IV nước Hung.
- Tháng 9, 1240: Ðánh tan liên minh quân
Ðức, Ba lan, và dòng tu Hiệp sĩ Ðức Teutonic Knights). Thủ lãnh của liên minh
là hoàng tử xứ Silesia
bị giết cùng với hầu hết hiệp sĩ của ông.
- Cuối năm 1241, quân Mông tiến vào nước
Ý, vượt qua thành Venice và Treviso, đồng thời ngược lên sông Danube, áp sát
thành Vienne Giữa lúc ấy, Ogedei chết. Theo luật, các anh em của vị đại hãn quá
cố phải trở về Mông Cổ để bầu chọn vị đại hãn mớị. Nhờ thế mà Âu châu thoát
được họa diệt vong. Vậy mà trên đường triệt thoái, quân Mông Cổ còn đủ thì giờ
để làm cỏ hai nước Bulgaria
và Serbia .
- Năm 1246, con của Ogatai là Kuyuk được
chọn làm đại hãn. Dưới thời ông, Ðức giáo chủ Innocent IV gửi đặc phái viên là
thầy John di Piano Carpini, dòng Phanxicô, tới các thủ lãnh Mông Cổ để tìm hiểu
ý đồ của họ ở Âu châu. Mới nắm quyền được ít lâu, còn đang lưỡng lự nên trở lại
chinh phục Âu châu trước hay tiến xuống phía Nam để chiếm trọn nước Trung hoa
trước, thì Kuyukchết vào năm 1248. Mangu, tức Mông Kha đại hãn và em là Kublai,
tức Hôt Tât Liệt đại hãn
- 1251: Một người cháu nội khác của Thành
Cát Tư Hãn là Mangu (còn viết là Mengke, ta gọi là Mông Kha) lên ngôi đại hãn.
Mông Kha quyết định thôn tính Á châu, đặc biệt là nước Trung Hoa trước. Nước
Trung Hoa thời đó chia làm Bắc Tống và Nam Tống. Mông Kha nắm quyền thống soái
nhưng lại giao trọng trách cho người em kiệt xuất đó là Hốt Tất Liệt (Kublai).
- Mông Kha sai một người em khác là
Hulagu trở lại thôn tính Ba Tư bao trùm khắp miền Ðông Nam Á châụ Ðồng thời
khuyến khích người em họ là Batu khống chế khắp vùng Ðông Âu, toả lên Ba lan,
Lithuania và Esthonia, rồi xuống Serbia và Bulgaria một lần nữa.
- 1252-1253: Hốt Tất Liệt chinh phục Vân Nam ,
từ đó phái một đạo quân mở cuộc xâm lăng bờ cõi nước ta lần thứ nhất vào năm
1257.
- 1259: Mông Kha chết, Hốt Tất Liệt
(Kublai) lên ngôi đại hãn vào năm 1260. Lúc ấy đế quốc Mông Cổ trải rộng từ
toàn vùng Hoa Bắc sang vùng Tiểu Á, từ vùng thủ đô Moscow của nước Nga xuống
biển Ðen, xuống Baghdad (Iraq) và Iran ngày naỵ
- Nhận được tin Mông Kha chết, người em
là Mangu đang chiếm đóng vùng Mesopotamia và Syria phải về Mông Cổ để bầu đại
hãn mới. Trong khi ông vắng mặt thì, năm 1260, đạo quân của ông đã bị tướng
Baibars (thuộc triều đại Mameluk cai trị Ai Cập và Syria) đánh bại trong trận
Aint Jalut, gần thành Nazareth. Chiến công của Baibars có ý nghĩa hết sức quan
trọng. Chứng minh đoàn quân bách chiến bách thắng Mông cổ suốt 70 năm không
phải là không thể đánh bại,dấu hiệu suy thoái đã biểu hiện và toàn Âu châu sẽ
thoát nạn Mông Cổ.
- 1268-1279: Hốt Tất Liệt không nuôi ý
chí chinh phục thế giới như các đại hãn tiền nhiệm, ông dốc hết khả năng để
chinh phục toàn cõi Trung Hoa trong một chiến dịch dài ngót mười năm. Năm 1263,
ông rời kinh đô từ Karakorum
về Bắc Kinh. Trong trận hải chiến cuối cùng vào năm 1279 tại vịnh Quảng Ðông,
Hốt Tất Liệt đã đánh bại nhà Nam Tống. Thừa tướng nhà Tống là Lục Tú Phu phải
cõng vua nhảy xuống biển để cùng tử tiết, từ đó Hốt Tất Liệt cai trị toàn cõi
Trung Hoa, xưng là hoàng đế, lập ra nhà Nguyên (Yuan Dynasty). Từ đây ta gọi họ
là quân Nguyên Mông.
-Dòm ngó Nhật Bản:
Hai lần vào các năm 1274 và 1281 quân.
Nguyên Mông sang đánh nước Nhật. Nhưng " nhờ Trời ", cả hai lần chiến
thuyền của quân Nguyên Mông đều bị bão táp đánh chìm vô số, phải quay về.
- 1292-1293: Với tay xuống mãi đảo Java
(Nam Dương), nhưng không ở lại được.
- Ðặc biệt nhất là ba lần quân Nguyên
Mông xâm phạm bờ cõi nước ta vào các năm 1257,1284 và 1287. Cả ba lần xâm lăng
đều chuốc lấy thảm bại.
5 . Hưng Đạo Vương Trần Quốc
Tuấn :
Trần Quốc Tuấn (1228-1300) là một danh nhân quân sự cổ kim của thế giới.
Ngay từ nhỏ, Trần Liễu đã kén những thầy
giỏi dạy cho Quốc Tuấn, ký thác cho con hội đủ tài võ, mong trả mối thù sâu
nặng năm nào.
Lớn lên Quốc Tuấn càng tỏ ra thông minh,
xuất chúng, đọc rộng các sách cả văn lẫn võ. Trong đời mình Quốc Tuấn đã trải
qua một lần gia biến, ba lần nạn nước. Nhưng ông lại càng tỏ ra là người hiền
tài, một vị anh hùnh cứu nước. Ông luôn đặt lợi nước lên trên thù nhà, vun
trồng cho khối đoàn kết giữa tông tộc họ Trần, tạo cho thế nước ở đỉnh cao muôn
trượng đủ sức đè bẹp quân thù. Trong lần quân Nguyên sang xâm lược lần thứ ha,
thấy rõ ngành trưởng, ngành thứ xung khắc, giữa ông và Trần Quang Khải không
chung sức chung lòng thì kẻ thù có lợi chỉ có thể là quân giặc. Bởi vậy, Quốc
Tuấn đã chủ động giao hảo hòa hiếu với Trần Quang Khải, tạo nên sự thống nhất ý
chí của toàn bộ vương triều Trần, đảm bảo đánh thắng quân Nguyên hùng mạnh.
Chuyện kể rằng, một lần ở biển Đông, Quốc
Tuấn mời Thái sư Trần Quang Khải sang thuyền mình trò chuyện chơi cờ và sai
người nấu nước thơm tự mình tắm rửa cho Trần Quang Khải, vĩnh viễn xóa nỗi hiềm
khích giữa hai người, đầu mối của hai chi họ Trần (Quốc Tuấn là con Trần Liễu,
Quang Khải là con Trần Cảnh). Lần khác, Quốc Tuấn đem việc xích mích dò ý các
con, Trần Quốc Tảng có ý kích ông nên cướp ngôi chi thứ. Ông nổi giận rút gươm
toan chém chết Quốc Tảng. May nhờ các con và những người tâm phúc van xin, ông
bớt giận dừng gươm nhưng bảo rằng:
Từ nay cho tới khi ta nhắm mắt, ta sẽ
không nhìn mặt thằng nghịch tử, phản thần này nữa.
Trong kháng chiến, ông luôn hộ giá bên vua, tay chống gậy bịt sắt. Dư luận xì xào sợ Ông giết vua,. Ông liền bỏ luôn phần bịt sắt, chỉ chống gậy để tránh hiềm nghi, làm yên lòng quân dân.
Trong kháng chiến, ông luôn hộ giá bên vua, tay chống gậy bịt sắt. Dư luận xì xào sợ Ông giết vua,. Ông liền bỏ luôn phần bịt sắt, chỉ chống gậy để tránh hiềm nghi, làm yên lòng quân dân.
Ba lần chống giặc, các vua Trần đều giao
cho ông quyền Tiết chế (Tổng tư lệnh quân đội) vì ông biết dùng người tài,
thương yêu binh lính, do vậy tướng sĩ hết lòng tin yêu ông. Đạo quân cha con ấy
trở thành đội quân bách chiến bách thắng.
Trần Quốc Tuấn là bậc tướng trụ cột của
triều đình. Ông đã soạn hai bộ binh thư: Binh thư yếu lược và Vạn Kiếp Tông bí
truyền thư dể răn dạy các tướng cầm quân đánh giặc. Khi giặc Nguyên lộ rõ ý đồ
xâm lược, Trần Quốc Tuấn viết Hịch tướng sĩ, truyền lệnh cho các tướng, dạy bảo
họ lẽ thắng trận, tiến lui. Hịch tướng sĩ rất hùng hồn, thống thiết, khẳng định
văn trương của một bậc "đại bút".
Trần Quốc Tuấn là một bậc tướng gồm đủ
tài đức.
Là tướng nhân, ông thương dân thương
quân, chỉ cho họ con đường sáng.
Là tướng nghĩa, ông coi việc phải hơn
điều lợi.
Là tướng trí, ông biết lẽ đời sẽ dẫn tới
đâu.
Là tướng dũng, ông xông pha nơi nguy hiyểm để đánh giặc, tạo những trận như Bạch Đằng oanh liệt nghìn đời.
Là tướng tín, ông bày tỏ trước cho quân
lính theo ông sẽ được gì, trái lời ông thì gặp họa. Cho nên, cả 3 lần đánh giặc
Nguyên, ông đều được giao trọng trách điều bát binh mã và đều lập công lớn.
Hai tháng trước khi mất, vua Anh Tông đến
thăm và hỏi:
Nếu chẳng may ông mất đi, giặc phương Bắc
lại sang xâm lấn thì kế sách làm sao?
ông đã trăng trối những lời tâm huyết, sâu sắc, đúng cho mọi thời đại:
ông đã trăng trối những lời tâm huyết, sâu sắc, đúng cho mọi thời đại:
- Thời bình phải khoan thư sức dân để làm
kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách giữ nước.
Mùa thu tháng Tám, ngày 20 năm Canh Tý (1300), "Bình Bắc đại nguyên soái" Hưng Đạo đại vương qua đời. Theo lời ông dặn, thi hài ông được hỏa táng thu vào bình đồng chôn trong vườn An Lạc, gần cánh rường An Sinh, không xây lăng mộ, đất san phẳng, trồng cây như cũ. Vua gia phong cho ông tước Hưng Đạo đại vương. Triều đình lập đền thờ ông tại Vạn Kiếp, Chí Linh, phong ấp của ông lúc sinh thời.
Mùa thu tháng Tám, ngày 20 năm Canh Tý (1300), "Bình Bắc đại nguyên soái" Hưng Đạo đại vương qua đời. Theo lời ông dặn, thi hài ông được hỏa táng thu vào bình đồng chôn trong vườn An Lạc, gần cánh rường An Sinh, không xây lăng mộ, đất san phẳng, trồng cây như cũ. Vua gia phong cho ông tước Hưng Đạo đại vương. Triều đình lập đền thờ ông tại Vạn Kiếp, Chí Linh, phong ấp của ông lúc sinh thời.
6. Napoléon Bonaparte
Tham gia cách mạng tư sản Pháp 1789 từ
một đại uý pháo binh và thân chinh đánh bại các đế quốc Anh,Áo-Phổ, Tây Ban
Nha,Ý,Nga,Ai Cập... trên toàn châu Âu để lập nên đế quốc Pháp.Sau thất bại
trong cuộc chinh phạt nước Nga mùa đông năm 1812, ông tuy vẫn có những chiến
thắng vang dội trước liên quân Anh-Áo-Phổ-Nga-Thuỵ Điển đông hơn gấp bội nhưng
mất dần quyền lực và phải thoại vị năm 1814.Một năm sau, tháng 3-1815 từ đảo
Elba trên Địa Trung Hải nơi ông bị đày ra sau khi thoái vị, ông trở lại Lyon
nắm lại quyền lực.3 tháng sau, Napolen thất bại trong trận Waterloo trước liên
quân Anh-HàLan-Phổ và buộc phải thoái vị.Ông bị đày ra đảo Saint-Helena ở Đại
Tây Dương và mất tại đây năm 1821.
7 . Georgi Konstantinovich
Zhukov
Georgi Konstantinovich Zhukov (tiếng Nga: Георгий Константинович Жуков, đọc là Ghê-oóc-ghi Can-xtan-chi-nô-vích Giu-cốp; 1 tháng 12 năm 1896 – 18 tháng 6 năm 1974) là một danh tướng trong quân đội Liên Xô. Trong rất nhiều tướng lĩnh nổi danh thế giới trong Thế chiến thứ hai, G.K. Zhukov được xếp đầu bảng về số lượng trận thắng nhiều và quy mô lớn, được nhiều người công nhận về tài năng chỉ đạo chiến dịch và chiến lược. Những chiến tích sáng chói của ông trở thành tài sản vô giá trong kho tàng di sản văn hoá nhân loại. Nó không những có ảnh hưởng lớn về lý luận quân sự của Liên Xô mà cũng có ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển của lý luận quân sự thế giới.
8 . Võ Nguyên Giáp
Là một người có tài tổ chức và kiên nhẫn, Võ Nguyên Giáp đã từng bước xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam từ 34 người vào tháng 12 năm 1944 thành một đội quân với hơn một triệu người năm 1975. Là một nhà chiến lược - chiến thuật bậc thầy, ông đã lãnh đạo quân đội đó giành thắng lợi trong cả hai cuộc chiến tranh. Tên tuổi của Võ Nguyên Giáp gắn liền với một chiến thắng có ý nghĩa quốc tế của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong trận Điện Biên Phủ - lần đầu tiên quân đội của một nước thuộc địa châu Á đánh bại trên chiến trường quân đội của một cường quốc châu Âu. Với hơn 50 năm tham gia hoạt động chính trị ở cấp cao nhất, trong đó có 30 năm là Tổng tư lệnh quân đội, ông có uy tín lớn trong Đảng Cộng sản Việt Nam, trong quân đội và trong nhân dân, được coi là một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và là Người anh cả của Quân đội Nhân dân.
Ông được cả thế giới biết đến như một
trong những danh tướng của thế kỷ 20 - người đã đánh bại nhiều viên tướng quân
đội Pháp trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất và lần lượt đọ sức với 7
danh tướng của quân đội Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam cho tới khi Hoa Kỳ
rút quân ra khỏi bán đảo Đông Dương sau Hiệp định Paris (1973).
Ngày 25-8-2006, Đại tướng Võ Nguyên Giáp
đã mừng sinh nhật thượng thọ lần thứ 95. Ông là chính khách Việt Nam
sống lâu nhất tính cho đến thời điểm này (cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng mất năm
2000, thọ 94 tuổi).
Kỷ niệm 60 năm ngày phát hành số đầu
tiên, Thời báo châu Á (Times Asia) đã ra số đặc biệt giới thiệu các "Anh
hùng châu Á" , tôn vinh các nhân vật nổi tiếng làm thay đổi cục diện châu
lục trong những thập kỷ gần đây. Những nhân vật được giới thiệu gồm Mahatma
Gandhi, Jawaharlal Nehru, Đại tướng Võ Nguyên Giáp (Việt Nam )
9 . Thống chế Erwin Rommel (
1891 - 1944 )
Một vị chỉ huy quân sự được thế giới đánh giá thuộc loại xuất sắc nhất trong hàng ngũ các tướng lĩnh trong quân đội đức Quốc xã cung với Eric von Manstein và Heinz Guderian.Ông được mệnh danh là Con cáo sa mạc trong thời gian chỉ đạo quân đoàn châu Phi của Đức thời gian 1941-1943.Với số quân luôn luôn ít hơn và một lượng xe tăng đời III không quá hiện đại lúc bấy giờ của Đức, Rommel đã đập tan và đẩy lùi nhiều sư đoàn của khối liên minh Anh,Mỹ, Úc, Ấn Độ, New Zealand, Nam Phi, Rhodesia, Pháp và Ba Lan.Quân số luôn bị cắt giảm để bổ sung cho mặt trận Xô-Đức, cùng ngồn tiếp tế qua Địa Trung Hải ngày càng thưa thớt dần bởi không quân Đồng Minh, nhưng Rommel với số quân Đức ít ỏi còn lại vẫn giáng một đòn nặng nề vào quân đoàn số 2 của Mỹ tại Tunisia trước khi ông và số quân Đức còn lại buộc phải rút khỏi Bắc Phi trong bất lực khi không còn nguồn tiếp tế để tiếp tục chiến đấu.
Trở về Đức và được Hitler chỉ định lập tuyến phòng thủ tại bờ biển của Pháp nhàm ngăn chặn cuộc đổ bộ của Đồng Minh sắp xảy ra.Nhưng sai lầm của Hitler và Rundstedt về nhận định tình hình qua tin tức tình báo đã làm cho kế hoạch phòng thủ của Rommel không thành.Các đơn vị xe tăng thay vì được chia nhỏ và rải rác khắp các eo biển Pháp để chi viện, bổ sung cho nhau khi quân Đông Minh đổ bộ nhằm chặn đứng ngay lập tức đến mức có thể khi quân Đồng Minh đổ bộ và tránh thiệt hại tối đa khi bị không kích bởi không quân Đồng Minh thì lại được tụm lại theo ý của Hitler và Rundstedt ở vùng giữa eo biển Pas de Calais và Paris.Do bị nghi ngờ tham gia ám sát Hitler, ông bị Hitler bức tử bằng thuốc độc tháng 10-1944.
10 . Đại tướng Heinz Guderian
Guderian được giới nghiên cứu lịch sử thế giới đánh giá không chỉ là một vị tướng xe tăng đại tài mà còn là một nhà chiến lược quân sự tài ba có tầm nhìn của thời đại. Ông chính là tác giả của cuốn sách Achtung !Panzer về học thuyết quân sự chiến tranh chớp nhoáng (Blitzkrieg) với chủ trương dùng lực lượng xe tăng làm chủ đạo tiên phong để đột kích, đánh thọc sâu chia cắt làm rối loạn , hoang mang để đạp tan đội hình của đối phương sau khi bị oanh kích bởi không quân và pháo binh.Những lý thuyết như vậy ngày nay không còn gì là mới mẻ nhưng trong thời kờ những năm 30 của thế kỉ trước, việc đề ra sách lược này cùng với việc ông hối thúc Hitler và nền công nghiệp quốc phòng Đức nâng cấp và sản xuất hàng loạt những xe tăng đời III vào thời điểm thời bấy giờ là một bước tiến vượt bậc về quan điểm chiến tranh.
Guderian và von Manstein được ghi nhận là
những vị chỉ huy xe tăng tài năng nhất của quân đội Đức quốc xã.Tuy vậy khi
cuộc xâm lược Liên Xô nổ ra 6-1941, những quan điểm và chiến lược của hai ông
trong những thời điểm quan trọng lại không được Hitler coi trọng, qua đó làm
mất cơ hội chiếm được Moscow nhanh chóng và làm mất thế chủ động của quân Đức sau
trận Kursk 1943.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét