5. HỢP ĐỒNG
Năm
1954, Lưu Thiếu Kỳ và Chu Ân Lai đã từng đạt tới một “hợp đồng”, bắt tay nhau
trừ gọn vị tướng yêu của Mao Trạch Đông là Cao Cương. Lúc bấy giờ Trung Quốc
đang chuẩn bị triệu tập Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc khóa 1, đại hội
Đảng lần thứ 8, đây là những ngày tháng rất nhạy cảm mà cả nước đang trông chờ
một cuộc phân phối quyền lực, có thể nói là rất quan trọng kể từ năm 1949, năm
thành lập nền cộng hòa nhân dân. Cao Cương, hay còn gọi là “Vua Đông Bắc”, được
Mao bật đè xanh tìm cách chống lại Chu Ân Lai, nếu thành công thì theo lời hứa
Cao sẽ thay Chu nhận lãnh chức vụ thủ tướng, còn Chu như một “bình hoa”làm Chủ
tịch mặt trận đoàn kết toàn dân.
Cao
Cương là người sáng lập khu căn cứ Thiểm Bắc, “đồng tác giả” với ông còn có Lưu
Chí Đan, người đã hy sinh trong những năm kháng chiến chống Nhật. Mùa thu năm
1935, Chu Ân Lai, Mao Trạch Đông, Chu Đức lãnh đạo hồng quân thực hiện cuộc vạn
lý trường chinh, cuối cùng đến Thiểm Bắc thì dừng lại và đứng chân vững vàng.
Thời ấy ở Diên An người ta đồn đại một luận điểm “Thiểm Bắc cứu Trung ương”.
Cao Cương hô hào “Quân đảng luận” vì theo Cao, ĐCS Trung Quốc có lực lượng vũ
trang Hồng quân nên mới phát triển lớn mạnh và Mao Trạch Đông đã nêu lên nguyên
lý trứ danh “họng súng đẻ ra chính quyền”. Lưu Thiếu Kỳ, người đại diện cho mặt
trận hoạt động bí mật và phong trào công nhân ở các khu trắng, tất nhiên không
thể tán thành “quân đảng luận” của Cao, một quan điểm làm đảo lộn quan hệ giữa
Đảng và quân đội. Với khẩu hiệu “lấy súng chỉ huy Đảng”, Cao đã vi phạm nguyên
tắc “Đảng chỉ huy súng”, Thực chất của “quân đảng luận” là chống lại Lưu Thiếu
Kỳ. Vì vậy lúc Cao Cương thách thức Chu Ân Lai thì Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức, Trần
Vân, Đặng Tiểu Bình đều đứng về phía Chu Ân Lai. Cao Cương cũng không biết
lượng sức mình, trong một lần hội nghị Bộ Chính trị, luận điểm sai lầm của ông
đã bị các đồng chí phê bình kịch liệt, Cao ngang nhiên rút súng định tự sát.
Hành động hung hãn ấy càng khiến mọi người bất bình, đại đa số ủy viên Bộ Chính
trị đã bất chấp cả “ý chí” của Mao,
kiến quyết xử lý Cao. Mao Trạch Đông vô kế khả thi, đành buông tay bỏ cuộc, lấy
cớ dưỡng bệnh về miền Nam trú đông, không tham dự hội nghị toàn thể Trung ương
kỷ luật “Liên minh chống Đảng Cao Cương-Nhiêu Thấu Thạch”. Lưu Thiếu Kỳ chủ trì
hội nghị, Đặng Tiểu Bình, tổ trưởng chuyên án, đọc báo cáo về sai lầm của
Cao-Nhiêu và quyết định khai trừ Đảng tịch hai người, giao cho luật pháp hành
tội. Cao Cương vào nhà đá, cuối cùng đã tự sát.
Sau
vụ Cao-Nhiêu, cả Lưu Thiếu Kỳ lẫn Chu Ân Lai đều củng cố được thế lực của mình.
Lưu Thiếu Kỳ đưa tướng tài, từng một thời dưới quyền ở Cục Hoa Bắc là An Tử Văn
thay thế Nhiêu Thấu Thạch đảm nhận chức vụ Trưởng ban tổ chức Trung ương, nắm
quyền lớn về nhân sự trong toàn Đảng. Còn Chu Ân Lai điều Trần Nghị-Thị trưởng
Thưởng Hải-lên Bắc Kinh làm Phó Thủ tướng Quốc vụ viện kiêm Ngoại trưởng, thực
sự trở thành cánh tay đắc lực cho Chu ở Trung Nam Hải.
Tháng
9-1945, tại Đại hội đải biểu nhân dân toàn quốc khóa 1, Mao Trạch Đông được bầu
là CHủ tịch nước, Chu Đức-Phó Chủ tịch nước, Lưu Thiếu Kỳ ủy viên trưởng (chủ
tịch quốc hội), Chu Ân Lai vẫn là Thủ tướng nhưng kiêm nhiệm thêm chức Chủ tịch
mặt trận. Thanh thế Lưu Thiếu Kỳ ngày một nâng cao, ngoài chủ trì công tác
thường nhật của Trung ương nay ông phải đứng đầu cơ quan lập pháp tối cao, lại
kiêm nhiệm cả mặt trận nông nghiệp. Từ năm 1955, Mao Trạch Đông vội vàng cưỡng
chế thúc đẩy phong trào cải tạo xã hội chủ nghĩa ở thành phố cũng như nông
thôn, ông quyết tâm tiêu diệt kinh tế cá thể ở bất kỳ một hộ nông dân nào và
thu hồi quyền sở hữu đất đai của họ, thành lập hợp tác xã cao cấp nửa xã hội
chủ nghĩa, công việc này giao cho Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tử Khôi thực hiện. Lưu
và Đặng đầu óc tỉnh táo hơn, họ cho rằng tập thể hóa, sản xuất lớn, ăn chung
nồi thì tình hình nông thôn nhất định sẽ hỗn loạn, vì vậy hai người chủ trương
“hãm xe” đội nước lạnh lên phong trào, giải tán 20 vạn hợp tác xã nông nghiệp.
Chắc chắn Lưu Thiếu Kỳ phải báo cáo tình hình này với Mao Trạch Đông mới dám
hành động như vậy. Một năm sau tại đại hội Đảng, cụm từ “tư tưởng Mao Trạch
Đông” bị đưa ra khỏi điều lệ. Mao bắt đầu bất mãn với Lưu, lúc nào có hội nghị
ông đều chỉ trích Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tử Khôi là loại “đàn bà bó chân” trên
mặt trận nông nghiệp, hữu khuynh hủy bỏ 20 vạn nông nghiệp xã.
Ở
thành phố, Mao giao nhiệm vụ cho Chu Ân Lai và Trần Vân phụ trách phong trào
cải tạo xã hội chủ nghĩa, Chu chấp hành lệnh Mao rất nghiêm chỉnh, quốc hữu hóa
tất cả nhà máy, xí nghiệp lớn nhỏ, hiệu buôn, cửa hàng... của tư sản vào “công
tư hợp doanh”, sau một đêm, tư doanh biến thành công doanh, nhà tư bản biến
thành công nhân. Bao nhiêu thành phố, thị trấn căng đèn kết hoa, cờ dong trống
mở chúc mừng cải tạo xã hội hcur nghĩa thành công tốt đẹp. Chu lập công lớn với
Mao, nhưng vẫn không làm cho Mao thay đổi lòng nghi ngờ Chu .
Thời
gian năm 1956, ngoài giải tán các nông nghiệp xã, Lưu Thiều Kỳ còn làm hai việc
khiến Mao nổi giận. Thứ nhất, sửa đổi điều lệ Đảng, hủy bỏ câu “lấy tư tưởng
Mao Trạch Đong làm tư tưởng chỉ đạo trong toàn Đảng”. Khi thảo luận vẫn đề này,
đại đa số tán thành. Chu Đức, Trần Vân phát
biểu: Có thể nghiên cứu. Chu Ân Lai im lặng. Mấu chốt vẫn là Lưu Thiếu Kỳ, ông
nói, đầu tiên cũng do ông đề xuất “lấy tư tưởng Mao Trạch Đông” và đưa vào điều
lệ, nhưng nay cần nhấn mạnh lãnh đạo tập thể, chống sùng bái cá nhân, nên ông
phải tôn trọng ý kiến đa số. Mùa thu năm 1956, Chu Ân Lai và Trần Vân dẫn đầu
đoàn đại biểu sanh Liên Xô và học tập kinh nghiệm. Trở về nước, Chu , Trần báo cáo kết quả chuyến đi trước hội nghị Bộ
Chính trị do lưu Thiếu Kỳ chủ trì. Sau đó, “Nhân dân nhật báo” số ra ngày
1-1-1957 đăng bài xã luận nhấn mạnh chống tả khuynh, chống mạo hiểm. Bài xã
luận này cũng do Lưu Thiếu Kỳ phê duyệt, nhưng điều làm cho Mao bực dọc là dựa
trên tinh thần của hội nghị Bộ Chính trị, Lưu-Chu đã hợp tác rất ăn ý nhằm đề
phòng bầu không khí cuồng nhiệt mà phong trào “Đại nhảy vọt”-tác phẩm do Mao
sáng tác-gây nên, hạn chế hậu quả của tả khuynh và mạo hiểm.
“Liên
minh” Lưu-Chu, liên minh giữa hai con người, một bên là nhà thực dụng, một bên
là nhà trị quốc khiến Mao không hào hứng, bởi nó đã phá đi cái thế “ngọa sơn
quan hổ đấu” của ông, Mao muốn hai người lục đục để ông phán xử, nâng cao ủy
phong của mìn. Nhưng nay, Lưu-Chu đã hợp tác vào buộc Mao phải suy nghĩ lại thế
cờ. Sau đó, một phong trào chống hữu khuynh ập xuống đất Thần Châu, Mao Trạch
Đông phản công. Ấy là vào mùa hè năm 1957 đáng nhớ.
( Còn nữa)
( Còn nữa)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét